Vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ
Làng nghề truyền thống Mai Hồng (thuộc thôn 8, xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch) vốn nổi tiếng với nghề rèn đúc truyền thống. Những năm trước đây, 100% người dân làng nghề truyền thống Mai Hồng đều theo nghề rèn đúc. Tên gọi “xóm lò rèn” hay biểu tượng hình bông lúa in trên mỗi sản phẩm nông nghiệp của HTX Mai Hồng thời kỳ đó đã trở nên quen thuộc với mỗi người dân địa phương.
![]() |
Làng nghề rèn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ ô nhiễm môi trường (Ảnh: TL) |
Tính đến thời điểm hiện tại, làng nghề này chỉ còn khoảng 45% hộ dân theo nghề truyền thống, số còn lại đã chuyển sang các ngành nghề dịch vụ. Quy mô sản xuất đã được thu gọn, các hộ dân đã cải tiến máy móc, dùng các sản phẩm inox để thay thế cho các vật liệu bằng gang, sắt… nên các nguy cơ ô nhiễm môi trường ở làng nghề trước đây, như: ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm khói bụi..., cũng đã được hạn chế nhiều.
Tuy nhiên, do các hộ gia đình ở làng nghề truyền thống Mai Hồng chủ yếu tận dụng sân nhà để sản xuất cơ khí nên công tác kiểm soát khói bụi, nước thải, khí thải vẫn chưa được xử lý triệt để, nguồn nước thải chủ yếu vẫn được xả thẳng ra sông Lý Hòa.
Tại làng nghề chế biến bún, bánh mè xát Tân An (xã Quảng Thanh, huyện Quảng Trạch), với việc sản xuất hàng chục nghìn cái bánh tráng mỗi ngày, vấn đề xử lý nước thải như thế nào để không gây ô nhiễm môi trường đang được người dân hết sức quan tâm.
Chị Phan Thị Cẩm Tú, Giám đốc HTX làng nghề truyền thống Tân An cho biết, để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tất cả nguồn nước trong quá trình làm bánh đều đã được người dân lọc lại và tận dụng làm thức ăn chăn nuôi, riêng quá trình sản xuất bún phải sử dụng rất nhiều nước. Với thực tế làng nghề chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung như hiện nay, việc xả thẳng nguồn nước thải ra hệ thống kênh, mương cũng là điều khiến các hộ dân nơi đây thực sự trăn trở.
Theo lãnh đạo Chi cục Bảo vệ môi trường, Sở Tài nguyên-Môi trường, vấn đề ô nhiễm môi trường tại làng nghề trên địa bàn tỉnh tuy không thực sự “nóng” như nhiều địa phương khác trên cả nước nhưng cũng tiềm ẩn những vấn đề đáng quan tâm.
Với số lượng nhóm nghề phong phú, như: mộc, mây tre đan, rèn kim khí, nghề làm hương, chổi đót, nước mắm, khoai deo, nón lá…, các làng nghề, làng nghề truyền thống tại Quảng Bình đều sử dụng nguồn nguyên liệu, phụ liệu từ nông, lâm, thủy sản tại địa phương.
Quy mô các làng nghề còn nhỏ, giá trị sản xuất không lớn, các ngành nghề sản xuất ít có chất độc hại tác động đến môi trường nên việc xử lý môi trường chủ yếu chỉ dừng lại ở công tác thu gom rác thải, xử lý để giữ gìn vệ sinh môi trường.
Đưa ra cơ chế phù hợp
Hiện nay, công tác quản lý môi trường tại các làng nghề vẫn tồn tại nhiều bất cập do chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định riêng đối với vấn đề bảo vệ môi trường làng nghề theo đặc thù của mỗi loại hình sản xuất. Mặt khác, các làng nghề, làng nghề truyền thống tại Quảng Bình nằm phân tán trong khu dân cư, nguy cơ ô nhiễm chỉ giới hạn trong phạm vi một khu vực thôn, làng, xã nên rất khó quy hoạch.
![]() |
Các làng nghề, làng nghề truyền thống tại Quảng Bình chủ yếu có quy mô sản xuất nhỏ, ít có chất độc hại tác động đến môi trường (Ảnh: TL) |
Các nguy cơ ô nhiễm về nguồn nước sinh hoạt, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn… đều cần phải được xử lý theo đúng quy trình với nguồn kinh phí đầu tư lớn trong khi đa số các hộ sản xuất tại làng nghề đều là cơ sở sản xuất nhỏ lẻ nên không đủ nguồn lực tài chính để đầu tư hệ thống xử lý chất thải đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành.
Bên cạnh đó, hệ thống quản lý môi trường làng nghề còn hạn chế nên chưa có được những con số thống kê về tổng lượng cũng như tính chất của khí thải, nước thải và rác thải.
Lãnh đạo Quản lý Công nghiệp, Sở Công thương cho biết, một trong những giải pháp tối ưu để kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các làng nghề chính là việc quy hoạch vùng sản xuất tập trung. Đồng thời, tại các khu vực này, phải được quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đầy đủ, đặc biệt là các công trình xử lý môi trường. Tuy nhiên, đây là giải pháp không thể làm được trong một sớm một chiều bởi nguồn kinh phí của tỉnh còn rất hạn hẹp.
Thời gian tới, các cấp chính quyền cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề để các hộ, cơ sở sản xuất trong làng nghề biết và thực hiện.
Trước mắt, các làng nghề, làng nghề truyền thống cần nhân rộng các mô hình thực hiện xử lý môi trường có hiệu quả tốt; khuyến khích các làng nghề ứng dụng công nghệ sản xuất hiện đại nhằm hạn chế mức độ ô nhiễm môi trường; có cơ chế khuyến khích hình thành các hương ước, quy chế bảo vệ môi trường của các làng, xã để buộc mọi người lao động có trách nhiệm bảo vệ và giám sát bảo vệ môi trường.
Về lâu dài, cơ quan chức năng cũng cần tính đến việc đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống xử lý nước thải tập trung, xử lý chất thải theo quy trình; gắn công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề, làng nghề truyền thống với chương trình xây dựng nông thôn mới và chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển của địa phương.
Thanh Hải